Phong cách nghệ thuật và sự nghiệp sáng tác của Nam Cao

Nam Cao là một nhà văn nổi tiếng trong làng văn học quốc gia. Những sáng tạo của ông thể hiện tinh thần lao động và cái nhìn hướng thiện của con người. Phong cách nghệ thuật của Nam Cao có cá tính riêng, thể hiện trong từng tác phẩm, từng chữ, từng câu. Bài viết dưới đây reagleplayers.com sẽ làm sáng tỏ nét độc đáo của con người và phong cách nghệ thuật của ông.

I. Vài nét về tiểu sử của nhà văn Nam Cao

phong-cach-nghe-thuat-cua-nam-cao-1
Nam Cao là một nhà văn nổi tiếng trong làng văn học quốc gia

Nam Cao (1917 – 1951) tên thật là Trần Hữu Tri, sinh ra tại làng Đại Hoàng, tổng Cao Đà, huyện Nam Sang, phủ Lý Nhân (nay là xã Hòa Hậu, huyện Lý Nhân), tỉnh Hà Nam

Ông sinh ra trong một gia đình nông dân, xuất thân trong một gia đình có hoàn công rất khó khăn nhưng bố mẹ ông luôn đùm bọc, tạo điều kiện cho ông được đi học. Sau khi tốt nghiệp cấp 2, ông bắt đầu đi làm thêm để kiếm sống, trải qua nhiều công việc, cuộc sống khó khăn. Nam Cao chọn con đường văn chương vừa để mưu sinh, vừa để thỏa mãn niềm yêu chữ.

Trong những năm kháng chiến chống Pháp, ông sẵn sàng đứng vào hàng ngũ cách mạng kháng chiến, đấu trông cho hòa bình dân tộc. Ông mất năm 1951 khi đang đi công tác ở Ninh Bình.

II. Sự nghiệp sáng tác của nhà văn Nam Cao

phong-cach-nghe-thuat-cua-nam-cao-2
Nam Cao luôn quan tâm đến đời sống tinh thần, khai thác diễn biến tâm lý nhân vật

1. Phong cách nghệ thuật

Khai thác đời sống nội tâm, tinh thần của nhân vật:

Tác giả luôn quan sát và miêu tả rất kỹ diễn biến cảm xúc của các nhân vật mà mình khắc họa. Nam Cao luôn quan tâm đến đời sống tinh thần, khai thác diễn biến tâm lý nhân vật, thể hiện cảm xúc vừa phải đến từng chi tiết của nhân vật, từ đó đẩy tác phẩm lên cao trào nên trong tác phẩm của ông, người đọc phải suy ra cảm xúc theo từng lời văn, câu chữ.

Đặc trưng của nghệ thuật Nam Cao là phương pháp độc thoại nội tâm của các nhân vật:

Có thể nói, trong nền văn học quốc ngữ Việt Nam, Nam Cao là nhà văn tiêu biểu miêu tả tâm lí nhân vật bằng ngôn ngữ độc thoại nội tâm. Nam Cao như phơi bày những cuộc tranh luận ngầm, ​​những mâu thuẫn kịch tính bên trong các nhân vật giúp độc giả hiểu được sự thật đằng sau những quyết định đau lòng của họ.

Nam Cao cũng thể hiện sự khéo léo sử dụng ngôn ngữ trong ngôn ngữ đối thoại đời thường, ngoài vai trò trần thuật còn nhằm khắc họa tính cách nội tâm nhân vật (Chí Phèo, Lão Hạc… )

Đặc biệt coi trọng việc phản ánh hiện thực xã hội đương thời và đem đến tiếng nói đồng cảm với tầng lớp lao động cùng khổ.

Với ông, văn học là một bộ môn nghệ thuật có ý nghĩa sâu sắc trong đời sống nhân dân. Văn học phải trung thực, đáng tin cậy, gắn bó mật thiết với đời sống của nhân dân lao động. Nó chỉ có thể được coi là nghệ thuật phục vụ nhân loại nếu nó có giá trị và ý nghĩa đối với cuộc sống của con người.

Tuy chỉ cầm bút được khoảng 15 năm, nhưng bằng tài năng và lương tâm của mình, Nam Cao đã để lại cho nền văn học Việt Nam một số lượng lớn tác phẩm có giá trị. Vì vậy, bức tranh xã hội trong tác phẩm của ông không đồ sộ, nặng nề mà rất chân thực, sâu sắc. Ông xứng đáng là người kế tục truyền thống tốt đẹp của chủ nghĩa hiện thực, và trong thời kỳ tưởng chừng như bế tắc, khi ngôn từ và ngôn từ đã đưa sự kiểm duyệt của chính quyền thực dân trở lại gắt gao, văn học hiện thực không còn rộng lớn và mạnh mẽ như xưa.

Các mảng đề tài chính trong văn học của Nam Cao:

Trước Cách mạng tháng Tám, truyện Nam Cao xoay quanh hai chủ đề chính: cuộc sống của người trí thức nghèo và người nông dân nghèo. Các tác phẩm của ông thường xoay quanh một ý tưởng chung là tập trung vào các khía cạnh khác nhau của sự tàn phá mà mọi người phải gánh chịu do nghèo đói.

Với đề tài trí thức nghèo, ông đã diễn tả sâu sắc tấn bi kịch tinh thần của những con người này trong xã hội cũ. Họ có hoài bão, lý tưởng và tài năng, nhưng họ bị sức nặng của miếng ăn và hoàn cảnh xã hội bóp nghẹt và trở nên thừa thãi. Như vậy, ông phê phán xã hội vô nhân đạo đang hủy hoại tâm hồn con người, đồng thời bày tỏ khát vọng về một cuộc sống có ích, có ý nghĩa.

Lấy người nông dân làm đề tài, Nam Cao đã vẽ nên bức tranh hiện thực về cảnh nghèo khổ khốn cùng của nông thôn Việt Nam trước 1945, tập trung vào cuộc sống của những con người thấp hèn, bị chà đạp, nhẫn nhục, những người bị đẩy vào cảnh bần cùng, tha hóa, lưu manh hóa. Trong quá trình sáng tác, ông đi sâu vào miêu tả tâm lý và khẳng định tính chân thực của nó. Đồng thời lên án xã hội tàn bạo hủy hoại nhân tính của những người nông dân ôn hòa, khẳng định phẩm giá và bản chất lương thiện của họ.

III. Các tác phẩm của Nam Cao

phong-cach-nghe-thuat-cua-nam-cao-3
Sống món là tác phẩm nổi tiếng của nhà văn Nam Cao

1. Truyện ngắn

Nhỏ nhen, Làm tổ, Lang Rận, Lão Hạc (1943), Mong mưa, Một truyện xu-vơ-nia, Một đám cưới (1944), Đôi móng giò, Đời thừa (1943), Ba người bạn, Bài học quét nhà (1943), Bảy bông lúa lép, Cái chết của con Mực, Cái mặt không chơi được, Chuyện buồn giữa đêm vui, Cười, Con mèo, Đòn chồng, Đón khách, Đui mù, Mua danh, Mua nhà, Một bữa no (1943), Người thợ rèn, Con mèo mắt ngọc, Chí Phèo (1941), Đầu đường xó chợ, Điếu văn, Đôi mắt (1948), Nhìn người ta sung sướng, Những chuyện không muốn viết, Những trẻ khốn nạn, Nghèo (1937), Nụ cười, Trẻ con không được ăn thịt chó (1942), Truyện biên giới, Truyện tình, Tư cách mõ (1943), Từ ngày mẹ chết, Xem bói, Dì Hảo (1941), Nỗi truân chuyên của khách má hồng (1946), Mò Sâm Banh (1945), Truyện người hàng xóm, Rình trộm, Nước mắt, Nửa đêm, Phiêu lưu, Quái dị, Quên điều độ, Rửa hờn, Sao lại thế này?, Thôi về đi, Giăng sáng (1942), Làm tổ

2. Tiểu thuyết

“Truyện người hàng xóm”

Tiểu thuyết Sống mòn

Bốn tiểu thuyết bị thất lạc: Cái bát, Một đời người, Cái miếu, Ngày lụt.

IV. Kết luận 

Nam Cao là nhà văn hiện thực lớn, nhà văn nhân đạo chủ nghĩa với những quan điểm, tư tưởng lớn. Phong cách nghệ thuật của Nam Cao tiêu biểu cho nền văn học Việt Nam đương đại, thể hiện tiếng nói và hiện thực của giai cấp công nhân, nông dân và trí thức nghèo. Nam Cao đã để lại nhiều tác phẩm văn học bất hủ bằng nét bút điêu luyện và tình cảm sâu sắc, xứng đáng là một trong những cây bút xuất sắc của Việt Nam.

Bài viết được đề xuất